Siêu âm là kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh bằng cách sử dụng sóng siêu âm (sóng âm tần số cao) để xây dựng và tái tạo hình ảnh về cấu trúc bên trong của cơ thể. Siêu âm là một phương pháp giúp chẩn đoán và điều trị bệnh được áp dụng phổ biến trong y học. Bài viết sau đây sẽ tổng quan về siêu âm và các loại siêu âm chẩn đoán hiện nay.
Tìm hiểu tổng quan về siêu âm và Các loại siêu âm chẩn đoán hiện nay
Siêu âm (Ultrasound/Sonography) – là một kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh không xâm lấn, áp dụng phổ biến trong y tế, phương pháp tạo ảnh là sử dụng sóng siêu âm (sóng âm tần số cao) để xây dựng và tái tạo hình ảnh về cấu trúc bên trong cơ thể. Những hình ảnh này cung cấp thông tin có giá trị trong việc chẩn đoán và điều trị bệnh.
Do hình ảnh siêu âm được ghi nhận theo thời gian thực nên nó có thể cho thấy hình ảnh cấu trúc và sự chuyển động của các bộ phận bên trong cơ thể kể cả hình ảnh dòng máu đang chảy trong các mạch máu.
Nguyên lý hoạt động của siêu âm
Siêu âm dựa trên nền tảng là nguyên lý định vị bằng sóng siêu âm (sonar)-một kỹ thuật dùng để phát hiện các vật thể dưới nước. Trong khi siêu âm, bác sỹ sử dụng đầu dò (transducer) tỳ sát lên da, đầu dò có chức năng vừa phát vừa thu sóng siêu âm.
Khi siêu âm, các tinh thể bên trong đầu dò phát ra các sóng siêu âm truyền vào bên trong cơ thể. Các mô, xương và chất lỏng trong cơ thể - một phần hấp thụ hoặc truyền qua - một phần phản xạ lại sóng âm và quay ngược trở lại đầu dò. Đầu dò thu nhận sóng âm phản hồi, gửi các thông tin này tới bộ xử lý, sau khi phân tích các tín hiệu phản hồi bằng các phần mềm và thuật toán xử lý ảnh, kết hợp các thông tin để xây dựng và tái tạo thành hình ảnh siêu âm mà chúng ta nhìn thấy trên màn hình.
Các loại siêu âm chẩn đoán hiện nay
Theo như các y bác sĩ tại Phòng Khám Nam Phụ Khoa HCM cho biết, hiện nay ngành y tế đang áp dụng các loại siêu âm chẩn đoán sau:
Siêu âm trắng - đen: phát triển trong các năm 1970 - 1980, là siêu âm phương thức B cho hình ảnh 2 chiều trong không gian, tốc độ tạo hình nhanh, ghi hình tức thời sự chuyển động của các cấu trúc trong cơ thể, dùng trong khảo sát hình thái tất cả các cơ quan để kiểm tra, tầm soát, chẩn đoán, theo dõi... Tùy vào cơ quan khảo sát, vị trí nông, sâu để chọn các loại đầu dò và tần số thích hợp.
Siêu âm Doppler: phát triển trong các năm 1980 - 1990. Siêu âm Doppler dựa trên nguyên lý của hiệu ứng Doppler: các sóng âm của một vật đang di chuyển sẽ có tần số thay đổi, cao hơn khi di chuyển về phía đầu dò và thấp hơn khi đi xa đầu dò; sự thay đổi tần số tỉ lệ thuận với tốc độ vật di chuyển. Siêu âm Doppler thường được dùng để tính vận tốc, trở kháng của dòng chảy. Siêu âm Doppler ứng dụng chính trong khảo sát tim, các bệnh lý mạch máu trung tâm và ngoại vi, mạch máu các tạng, mạch máu thai…
Có ngộ nhận cho rằng siêu âm màu tốt hơn siêu âm trắng - đen. Thực tế, khi không nhằm mục đích khảo sát mạch máu cùng dòng chảy thì không cần đến “siêu âm màu”. Từ dùng chính xác là “siêu âm Doppler” (có nhiều kiểu siêu âm Doppler, siêu âm màu chỉ là một kiểu của siêu âm Doppler).
Siêu âm 3 chiều (3D): phát triển trong các năm 1990 - 2000. Nguyên lý: thu dữ kiện cả khối thể tích dựa trên cơ sở dữ liệu các lát cắt hình 2 chiều sát nhau và dựa vào tốc độ xử lý nhanh của máy tính. Người sử dụng chỉ cần chọn vị trí thích hợp, đầu dò tự động quét, máy sẽ tạo hình và hiển thị liên tục. Ứng dụng chính trong: siêu âm thai để đánh giá các bất thường và dị dạng của thai, khảo sát mạch máu, khối u…
Siêu âm 4 chiều (4D): phát triển từ sau năm 2000, là siêu âm 3D có thời gian cập nhật thông tin cực kỳ nhanh nên cho được hình ảnh với thời gian thực (thí dụ nhìn thấy được cử động thai). Như vậy, chiều thứ 4 là chiều thời gian. Ứng dụng chính trong siêu âm thai.
Trong thời gian gần đây, một số kỹ thuật siêu âm tiên tiến đã ra đời như: siêu âm hòa âm mô, siêu âm đàn hồi mô, siêu âm với chất tương phản… tạo thêm nhiều tiềm năng cho chẩn đoán siêu âm trong y khoa.
>>> Lưu ý: bài viết nguồn copy trên mạng, chỉ dành cho trình duyệt được chia sẻ.